Đái tháo đường còn gọi là bệnh tiểu đường, là thuật ngữ chỉ một nhóm bệnh lý chuyển hoá thường gặp, biểu hiện đặc trưng bởi tăng đường huyết mạn tính. Sự tương tác phức tạp của di truyền và nhiều yếu tố môi trường là nguyên nhân gây ra nhiều thể bệnh đái tháo đường. Tuỳ thuộc vào nguyên nhân sinh bệnh, các cơ chế chính gây tăng đường huyết bao gồm: rối loạn/giảm tiết insullin, giảm sử dụng glucose và tăng sản xuất glucose.
Tăng đường huyết có thể gây ra các biến chứng cấp tính, tình trạng dễ bị nhiễm trùng, về lâu dài, đái tháo đường gây tổn thương, rối loạn và suy giảm chức năng của nhiều cơ quan khác nhau, đặc biệt là mắt, thận, thần kinh, tim và mạch máu. Hiện nay, đái tháo đường là nguyên nhân hàng đầu của bệnh thận giai đoạn cuối, đoạn chi dưới không do chấn thương, mù mắt ở người lớn và là nền tảng của các bệnh tim mạch. Với tỉ lệ bệnh đang gia tăng nhanh trên toàn thế giới, đái tháo đường sẽ có thể là một nguyên nhân hàng đầu gây bệnh tật và tử vong trong tương lai.
I – Phân loại đái tháo đường theo bệnh nguyên (ADA 2022)
- Đái tháo đường tuýp 1 (tế bào beta bị phá huỷ qua trung gian miễn dịch, thường đưa đến thiếu insullin tuyệt đối).
- Đái tháo đường tuýp 2 (có thể thay đổi từ tình trạng đề kháng insullin ưu thế với thiếu insullin tương đối đến đề kháng insullin nhẹ và giảm tiết insullin chủ yếu).
II – Cơ chế bệnh sinh
1 – Cơ chế bệnh sinh đái tháo đường tuýp 1
Đái tháo đường tuýp 1 là hậu quả sự tương tác của các yếu tố di truyền, môi trường và miễn dịch, cuối cùng dẫn đến sự phá huỷ chọn lọc các tế bào beta tuyến tuỵ và gây thiếu hụt insullin. Đái tháo đường tuýp 1 có thể phát triển ở mọi lứa tuổi, phổ biến nhất là trước 20 tuổi.
Bệnh thường xảy ra trên một cơ địa di truyền nhạy cảm với bệnh phối hợp với các yếu tố nhiễm khuẩn và yếu tố miễn dịch.
Các cá nhân có cơ địa nhạy cảm di truyền vẫn có khối lượng tế bào beta bình thường khi sinh nhưng bắt đầu mất các tế bào này do quá trình tự miễn phá huỷ xảy ra trong vài tháng đến nhiều năm. Quá trình tự miễn này được kích hoạt bởi nhiễm trùng hay một kích thích môi trường và được duy trì bởi một phân tử của tế bào beta. Ở đa số bệnh nhân, các dấu ấn miễn dịch xuất hiện sau thời điểm kích hoạt cho đến trước khi bệnh có biểu hiện lâm sàng.
Khi khối lượng tế bào beta bắt đầu giảm, sự tiết insullin giảm dần. Tỷ lệ suy giảm khối tế bào beta rất khác nhau giữa các cá nhân. Do đó, một số bệnh nhân có tiến triển nhanh chóng đến bệnh và những người khác có tiến triển lâm sàng chậm hơn. Triệu chứng bệnh không rõ ràng cho đến khi phần lớn tế bào beta bị phá huỷ (70-80%). Thời kỳ đầu, chuyển hoá glucose còn duy trì được bình thường. Thời kỳ lâm sàng thường xuất hiện khi có sự gia tăng đột ngột nhu cầu insullin như nhiễm trùng hoặc dậy thì.
Những nỗ lực ngăn chặn quá trình tự miễn huỷ hoại tế bào beta đảo tuỵ tại thời điểm chẩn đoán bệnh đã tỏ ra không có hiệu quả hay chỉ có hiệu quả tạm thời trong việc làm chậm sự phá huỷ này.
2 – Cơ chế bệnh sinh đái tháo đường tuýp 2
Đái tháo đường tuýp 2 có bệnh nguyên đa gen, đa yếu tố và cơ chế sinh bệnh phức tạp. Nguyên nhân đích thực vẫn chưa được xác định. Trong đó, các yếu tố nền tảng của sự phát triển bệnh và có liên hệ mật thiết với nhau là sự khiếm khuyết trong bài tiết và tác dụng insullin (đề kháng insullin), suy giảm hiệu quả sử dụng glucose và suy giảm ức chế glucagon sau bữa ăn. Hầu hết các nghiên cứu cho thấy đề kháng insullin xảy ra trước rối loạn tiết insullin nhưng bệnh chỉ phát triển khi tiết insullin trở nên không thích hợp. Các yếu tố khác đóng góp vào cơ chế sinh là sản xuất glucose ở gan quá mức, tăng tái hấp thu glucose tại thận và chuyển hoá chất béo bất thường.